Cảm nghĩ của em về vẻ đẹp của tiếng Việt được thể hiện trong năm khổ thơ đầu của bài thơ “Tiếng Việt” - Bài 1
Năm khổ thơ đầu của bài thơ “Tiếng Việt” của nhà thơ Lưu Quang Vũ đã thể hiện rõ vẻ đẹp của tiếng Việt. Nhà thơ không sử dụng những khái niệm trừu tượng để lí giải Tiếng việt mà người nghệ sĩ đã sáng tạo nên một thế giới hình ảnh sinh động, gần gũi với cuộc sống của chúng ta, đó là tiếng mẹ gọi, tiếng cha dặn, tiếng kéo gỗ, câu hát, lời ru,... Âm thanh hiện lên trong câu thơ là những âm thanh đậm tình, sâu lắng, những âm thanh gắn liền với cuộc sống hằng ngày. Đó là âm thanh của tiếng mẹ gọi, tiếng kéo gỗ, tiếng gọi đò, tiếng lụa, tiếng cha dặn,.. Những âm thanh nghe sao mà thiết tha. Tiếng Việt là kết quả của Tình yêu và Lao động. Mọi mặt của đời sống dân tộc đã làm nên hồn cốt của tiếng việt. Bởi vậy “chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói”. Tiếng Việt là thứ của cải vô cùng lâu đời và quý báu của dân tộc. Nhà thơ Lưu Quang Vũ rất tài hoa khi sử dụng biện pháp nghệ thuật so sánh để khái quát đặc trưng tiếng nói của dân tộc. “Ôi tiếng Việt như bùn và như lụa/ Óng tre ngà và mềm mại như tơ”. Đây là một phát hiện mới mẻ của thi sĩ. Nhà thơ đã sử dụng hình ảnh quen thuộc, gần gũi, mang đậm bản sắc dân tộc, đó là hình ảnh "đất cày”, "lụa”, "tre ngà” "tơ”. Hai câu thơ cuối giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp mộc mạc, chân chất, khỏe khoắn, vừa mềm mại, dịu dàng, vừa cứng cỏi lại óng ả của tiếng Việt. Tóm lại qua năm khổ thơ đầu của bài thơ, độc giả đã cảm nhận rõ được vẻ đẹp của tiếng nói dân tộc, từ đó khơi gợi trong lòng mỗi người chúng ta tình yêu và trách nhiệm giữ gìn và bảo vệ tiếng Việt.
Cảm nghĩ của em về vẻ đẹp của tiếng Việt được thể hiện trong năm khổ thơ đầu của bài thơ “Tiếng Việt” - Bài 2
“Tiếng Việt” là bài thơ mang đậm tình yêu thương và niềm tự hào của không chỉ Lưu Quang Vũ mà của cả hàng triệu trái tim người Việt dành cho tiếng nói của Tổ quốc. Trong năm khổ thơ đầu của bài thơ, hình ảnh tiếng Việt - một khái niệm có phần trừu tượng và mơ hồ đã được tác giả tạc lại thật rõ ràng và dễ hiểu. Lưu Quang Vũ không dùng ngôn từ bác học hay các khái niệm chung chung mà dùng các hình ảnh đời thường vô cùng thân quen và mộc mạc, gần gũi để người đọc có thể hiểu được “tiếng Việt” là gì. Đó chính là tiếng mẹ gọi, tiếng cha dặn dò con; là tiếng con nghé kêu ngoài đồng, tiếng bụi tre xào xạo trong gió; là tiếng gọi đò bên sông vắng, tiếng mưa dội ào ào, tiếng lũ xoáy chân đê. Nhưng âm thanh ấy, ai mà chưa từng nghe qua, nên ai cũng hiểu, cũng cảm, cũng nhớ được, ấy chính là tiếng Việt. Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả còn sử dụng dồn dập điệp từ “tiếng” khi nhắc đến từng âm thanh, như để nhấn mạnh, để khắc sâu thêm sự hiện diện của tiếng Việt vào trong trí nhớ, trong tâm khảm của người đọc. Bởi đã là người Việt, thì phải biết tiếng Việt, phải nhớ và phải nói tiếng Việt. Từ đó, nhà thơ đã gợi lên trong mỗi người đọc tình yêu, sự quý trọng, thân thuộc, quyến luyến và tự hào với tiếng mẹ đẻ của dân tộc mình.